Lời giới
thiệu của Vũ Đăng Khuê: Ngày 6 tháng 7/2013, Lê Thiệp (69 tuổi), “ông Phở 75” hay “Thiệp
75”, một nhà báo, nhà viết ký sự độc đáo của làng báo Việt Nam, chủ nhân hệ thống Phở 75 ở Virginia và vùng phụ cận đã ra đi, để lại thật nhiều thương tiếc cho những
người đã từng gặp mặt, quen biết với anh. Tôi gặp anh 35 năm trước tại Nhật. Sau chục ngày lênh đênh trên biển,
ghe của anh được vớt đưa vào Nhật. Và cũng từ đó cho đến lúc anh về cõi ấy, tuy
không nhiều nhưng tụi tôi vẫn giữ cho nhau những cảm tình nồng thắm.
Anh đã mất cách đây hơn 1 tháng, nhưng tôi vẫn nghĩ là anh đang hiện diện. Tôi vẫn nhớ đến cái tính bất cần, bạt mạng, nhưng luôn chung thủy với vợ con, yêu bạn hơn yêu mình. Tôi vẫn không tin tại sao lại có cái kết thúc vô lý như vậy cho một con người như Lê Thiệp.
Nhớ lại vào một đêm cách đây 35 năm trước tại Tokyo, khi cả 2 đã “hoắc” cần câu, trong cơn say nửa mê nửa tỉnh, tụi tôi nói đủ chuyện trên trời dưới biển, từ chuyện anh phải bương chải trốn chui trốn nhủi những ngày ở Việt Nam vì sự ruồng bắt của chế độ, đến chuyện tìm đường đào thoát.
Lan man qua chuyện ăn uống, anh kể rành mạch về đặc sản của 3 miền “Trung-Nam-Bắc”. Tôi khoái nhất khi anh luận về “phở”. Anh kể:
Có một cô gái mở một tiệm phở sau ngày Saigon thất thủ, Hoàng Hải Thủy, một nhà văn nổi tiếng thời đó nhưng không một xu dính túi ngày nào cũng ghé ăn. Sở dĩ anh Thủy được ngon lành như vậy là nhờ cô gái tên là Thanh đã khẩn khoản mời anh Thủy mỗi sáng đến hàng cô sẽ đãi một tô phở và một ly cà phê phin. Cô nói với anh Thủy: “Anh cứ đến mỗi sáng ăn phở, cà phê miễn phí. Sự hiện diện của anh giúp em có cảm giác chúng ta vẫn còn những ngày như ngày xưa”. Nhưng rồi cuối cùng thì tiệm phở cũng sập vì vật giá lên cao, thịt và bánh cứ mỗi ngày mỗi hiếm. Hôm cuối cùng, anh Thủy ngồi bên ly cà phê viết tặng cô hàng bài thơ:
Tâm hồn cô Thanh cô yêu thơ
Dạ dày tôi đói tôi cần phở
Phở có ngon phải nhờ nước béo
Thơ tôi hay phải có tự do.
Nghe chuyện, tôi khoái chí vô cùng rồi anh bắt sang chuyện….cá, vì hôm đó, “mồi” của bàn nhậu tụi tôi có đĩa “sashimi” mà tôi mua ban chiều vì biết anh khoái, thấy tôi không đụng đũa, anh hỏi tại sao, tôi cười trừ vì “không thể” giải thích chỉ biết nói: “Tôi thích phở như anh thích sushi”, anh “thuyết”: Không như miền Bắc, miền Trung, miền Nam phong phú tôm cá lội đầy sông rạch cho nên dù là người miền nào đã sống ở miền Nam thì phải biết ăn cá. Cá làm được đủ món, từ kho tộ, kho tiêu, kho khô, kho nước, đến chiên dòn, canh chua, trộn gỏi ăn sống. Mê ly lắm. Mà tại sao ông…? Tôi chỉ ừ hử cho qua chuyện rồi lăn đùng ra ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy trong cái ngất ngây vì rượu, anh cười tươi: ông xem mấy bài tôi vừa viết để trên bàn. Tôi lướt mắt qua thấy loáng thoáng dòng chữ: “Bài tặng ông Khuê….đọc tiếp thì thấy có một chút thắc mắc vì cái tên nghe là lạ, nhớ lại lời “thuyết” của anh tối hôm trước: có nhiều người thuộc hầu hết tên các loại cá nhưng tôi bảo đảm với ông có một loại cá mà có thể có người chưa bao giờ nghe qua chứ đừng nói là nhìn thấy vì… không có duyên phận chẳng bao giờ gặp được đâu.
Anh đã mất cách đây hơn 1 tháng, nhưng tôi vẫn nghĩ là anh đang hiện diện. Tôi vẫn nhớ đến cái tính bất cần, bạt mạng, nhưng luôn chung thủy với vợ con, yêu bạn hơn yêu mình. Tôi vẫn không tin tại sao lại có cái kết thúc vô lý như vậy cho một con người như Lê Thiệp.
Nhớ lại vào một đêm cách đây 35 năm trước tại Tokyo, khi cả 2 đã “hoắc” cần câu, trong cơn say nửa mê nửa tỉnh, tụi tôi nói đủ chuyện trên trời dưới biển, từ chuyện anh phải bương chải trốn chui trốn nhủi những ngày ở Việt Nam vì sự ruồng bắt của chế độ, đến chuyện tìm đường đào thoát.
Lan man qua chuyện ăn uống, anh kể rành mạch về đặc sản của 3 miền “Trung-Nam-Bắc”. Tôi khoái nhất khi anh luận về “phở”. Anh kể:
Có một cô gái mở một tiệm phở sau ngày Saigon thất thủ, Hoàng Hải Thủy, một nhà văn nổi tiếng thời đó nhưng không một xu dính túi ngày nào cũng ghé ăn. Sở dĩ anh Thủy được ngon lành như vậy là nhờ cô gái tên là Thanh đã khẩn khoản mời anh Thủy mỗi sáng đến hàng cô sẽ đãi một tô phở và một ly cà phê phin. Cô nói với anh Thủy: “Anh cứ đến mỗi sáng ăn phở, cà phê miễn phí. Sự hiện diện của anh giúp em có cảm giác chúng ta vẫn còn những ngày như ngày xưa”. Nhưng rồi cuối cùng thì tiệm phở cũng sập vì vật giá lên cao, thịt và bánh cứ mỗi ngày mỗi hiếm. Hôm cuối cùng, anh Thủy ngồi bên ly cà phê viết tặng cô hàng bài thơ:
Tâm hồn cô Thanh cô yêu thơ
Dạ dày tôi đói tôi cần phở
Phở có ngon phải nhờ nước béo
Thơ tôi hay phải có tự do.
Nghe chuyện, tôi khoái chí vô cùng rồi anh bắt sang chuyện….cá, vì hôm đó, “mồi” của bàn nhậu tụi tôi có đĩa “sashimi” mà tôi mua ban chiều vì biết anh khoái, thấy tôi không đụng đũa, anh hỏi tại sao, tôi cười trừ vì “không thể” giải thích chỉ biết nói: “Tôi thích phở như anh thích sushi”, anh “thuyết”: Không như miền Bắc, miền Trung, miền Nam phong phú tôm cá lội đầy sông rạch cho nên dù là người miền nào đã sống ở miền Nam thì phải biết ăn cá. Cá làm được đủ món, từ kho tộ, kho tiêu, kho khô, kho nước, đến chiên dòn, canh chua, trộn gỏi ăn sống. Mê ly lắm. Mà tại sao ông…? Tôi chỉ ừ hử cho qua chuyện rồi lăn đùng ra ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy trong cái ngất ngây vì rượu, anh cười tươi: ông xem mấy bài tôi vừa viết để trên bàn. Tôi lướt mắt qua thấy loáng thoáng dòng chữ: “Bài tặng ông Khuê….đọc tiếp thì thấy có một chút thắc mắc vì cái tên nghe là lạ, nhớ lại lời “thuyết” của anh tối hôm trước: có nhiều người thuộc hầu hết tên các loại cá nhưng tôi bảo đảm với ông có một loại cá mà có thể có người chưa bao giờ nghe qua chứ đừng nói là nhìn thấy vì… không có duyên phận chẳng bao giờ gặp được đâu.
Tôi đọc một mạch
từ đầu đến cuối và vẫn giữ bài viết mãi đến bây giờ. “Có
sao nói vậy” một yếu tố rất hệ trọng của thể loại ký sự mà Lê Thiệp,
theo tôi là người có lối viết độc đáo có một không hai. Xin mời các bạn theo
dõi bài viết có cái tên nghe là lạ:
CÁ
HŨM HĨM
Có những thứ mà không có duyên phận thì không bao giờ gặp. Nhớ Saigon, nhớ Việt Nam, nhớ Tết, nhớ đủ thứ
nhưng trong cái lạnh của Nhật quả là nhớ cá hũm hĩm. Và cũng đừng cố tưởng tượng vì sẽ không thể
hình dung nổi. Vào một buổi trưa mưa dầm,
ghé một người bạn và được mời: “Bữa nay có cá hũm hĩm kho tộ, anh ở lại ăn
cơm”.
Thực
tình mà nói, cái tên cá hơi lạ tai và nó không tạo một ấn tượng gì nhưng vốn tò
mò nên dù không tính ở lại để ăn cá hũm hĩm kho tộ. Cá lóc kho tộ, cá rô
kho tộ, và cả đến cá trê kho tộ cũng đã là những món ngon được ăn nhiều lần. Nhưng cá hũm hĩm thì chưa.
Miền
Nam có nhiều thứ cá lạ nếu không rành thì khó mà phân biệt. Hãy nói đến cá bống: cá bống dừa, cá bống cát, cá bống than, cá bống
thùng. Nó từa tựa như nhau dưới con mắt
vô tình nhưng với người dân chất phác suốt đời không biết gì hơn là vườn ruộng
thì mỗi thứ cá bống mang một ý vị khác nhau.
Cá bống dừa kho tiêu, mặn và phải thật săn ăn với cơm nguội gạo mới. Cá bống cát mình trắng trong kho có nước và
nhiều ớt. Cá bống than không ngon thịt bở
và vụn. Cá bống thùng thừa trước 1945
không ai ăn nhưng – như lời giảng giải của chú Sáu “sau người ta tém hết”. Mới đầu người ta lột da cá bống thùng như lột
da ếch nhưng sau đó người ta ăn cả da vì như một số người phát biểu “ăn cả da mới
ngon”! Con cá bống thùng cũng là một con
cá lạ, có thể leo lên cây hoặc bò lên bờ lạch với hai cái ngạnh được xử dụng
như hai cái chân. Đêm đêm nằm trong rừng
Sát thỉnh thoảng nghe cá bống thùng từ cành xú cành đước nhảy xuống bì bõm. Nói đến rừng Sát lại nhớ cá mang ếch, thân ngắn,
bụng phình ra, đầu gần giống như đầu ếch, không vảy, da có hoa tím lạt, con cá
này đầy vẻ khôi hài. Nó có tiếng kêu eng
éc như lợn kêu. Cá mang ếch đặc biệt ngậm
trứng trong miệng. Trứng đỏ tươi lớn bằng
hòn bi. Thịt cá mang ếch ngọt, trắng
tươi như thịt gà, chiên rồi chấm nước mắm ớt thì tuyệt.
Và
nếu có bắt được cá đuối thì chặt đuôi cá xẻ thịt nấu liền, đừng để lâu sẽ có
mùi khai. Cá đuối nấu cháo, xương mềm
nhai như sụn non ngon khó quên. Nếu
không thì chặt quân cờ xào với cà chua, dưa chuột cũng rất ngon. Nhớ một điều là khi làm cá đuối phải đánh vảy
thật kỹ không sẽ có cảm tưởng có sạn lẫn vào đồ ăn vì vảy cá đuối tròn, nhỏ cỡ
lá bèo tấm nhưng rất cứng.
Nhưng đến cá hú thì thật khó được ăn nếu không phải
là dân Thủ Thừa. Dân Sài Gòn hẳn sẽ tự
hào về canh chua cá bông lau, cá dứa hoặc nếu không thì cá bống mú, cá chẽm. Nhớ lại tô canh chua tại tiệm Phước Thành góc
Ngô Tùng Châu hay ở Thanh Sơn đường Nguyễn Cư Trinh, ai mà có thể không nao nao
vì dịch vị tiết ra. Nhưng đến cá hú nấu
canh chua thì quả không bút mực nào tả xiết.
Nó ngon một cách kỳ lạ. Cá hú
không lớn lắm, con nào nặng độ một ký đã kể là lớn, mình nó lẳng, hơi
tròn và cụt đòn. Mổ một con cá hú sẽ không
thấy bộ đồ lòng mà chỉ thấy một bụng mỡ. Tô canh
chua cá hú thơm lừng và miếng mỡ cá phải được đối xử một cách nhẹ nhàng. Thật gương đũa mà gắp và ngay khi đưa vào miệng
là nó tan ra, thấm qua tận chân răng. Mỡ
cá hú có một vị thơm nhạt vương vất suốt bữa ăn, thịt cá hú ngậy, xương mềm có
thể nhai dễ dàng, đậu bắp, bạc hà, cà chua, me, rau ngổ, hành phi, tỏi là những
thứ đi cặp với cá hú. Có lần được
ăn cá hú nhưng thiếu rau ngổ khiến tô canh chua mất vẻ duyên dáng. Cá hú có nhiều ở Thủ Thừa và nếu may mắn cũng
có thể thấy ở Cần Thơ Long Xuyên. Nhưng
ít khi tìm thấy cá hú bán ngoài chợ. Có
vẻ như nó quá quí đến độ nếu bắt được thì không để nhà ăn người ta sẽ đem biếu. Có người quả quyết là canh chua cá bông lau bần
mới là ngon nhất, cá bông lau sống ở bên các rặng bần chuyên ăn trái bần, mình
đen hơn cá bông lau thường, có con lớn tới 5 ký lô. Không dám cãi bởi vì tùy khẩu
vị, nhưng nếu có thể so sánh thì canh chua cá bông lau bần hơi thô so với vị
thanh thoát của cá hú. Nếu có thể so
sánh khi đem kho thì cá hú và cá tra biển Hồ tương đương, vừa ngọt, vừa béo thịt
không cứng quá cũng không bở quá. Nói
lang thang đến tận biển Hồ. Thế biển Hồ
có cá hũm hĩm không?
À,
không – có lẽ phải nói là không biết vì chưa có dịp nhưng cá hũm hĩm không phải
sống ở rừng sâu núi thẳm hay sông dài biển rộng mà sống ngay cạnh chúng ta, nơi
các thửa ruộng nước. Miệt có nhiều là Thủ
Thiêm và có thể đã thấy rồi mà không để ý.
Cá hũm hĩm chỉ dài cỡ hai đốt ngón tay và lớn bằng chiếc đũa. Mình nó hơi tròn màu xám nhạt. Tại những ruộng bùn sâm sấp nước hay trên những
lối mòn giữa đồng ruộng, cá hũm hĩm tụ lại trong những lỗ chân trâu. Những thiếu nữ mộc mạc tay cầm một cái vợt nhỏ
bằng vải mùng lụi cụi trên đồng. Kê cái
vợt miệng lỗ chân trâu rồi đạp mạnh xuống bùn sát lỗ. Bùn lấn mạnh hất nước trong lỗ cùng với cá
hũm hĩm vào vợt, trung bình một lỗ như vậy có thể bắt được mươi mười lăm
con. Nếu đi buổi sáng một cô gái có thể
có được cỡ hai tô cá hũm hĩm.
Không
phải cứ thế về là ăn mà phải đánh vẩy cá và cho sạch nhớt. Nó bé tí teo làm sao đánh vẩy được chứ? lấy cám hoặc
mạt cưa, gạt nhẹ mớ cá vào. Cá hũm hĩm sống dai ra phết,
và các chú giẫy lung tung khiến mạt cưa dính khắp cá, sau đó đãi cho sạch. Mỡ đường nước mắm trộn đều với cá rồi kho bằng
tộ. Nhớ đổ nước nhiều và để lửa thật lớn. Khi nào sôi kỹ thì hạ lửa liu riu cho đến khi
nước vừa cạn chỉ còn một ít ở đáy tô là vừa ăn.
Đã được ăn cá hũm hĩm khô tộ một lần sẽ nhớ đời. Nó dai và ngọt, nó thơm và bùi, nhai nó quanh
với cơm nuốt nó dịu cuống họng. Không có
một thứ gì để so sánh vì quả không có gì để so sánh được. Trong cái tô đất màu gạch cua, những con cá
nhỏ bé nằm ngang dọc màu nâu thẫm bốc khói ngào ngạt. Ăn một miếng muốn ăn hai ăn ba.
Tối nay ngồi trong trại tị nạn nghe gió đông rít dưới thung lũng, tôi nhìn Tư Nhiễn, ông không nói gì suốt từ lúc ăn cơm xong. Khuôn mặt ông mang một vẻ gì
xa vắng khiến người đối diện mang mặc cảm mình là một trong những nguyên cớ khiến
ông buồn. Không hiểu sao tôi lại nhớ đến
cá hũm hĩm và buột miệng than.
-
Thèm cá hũm hĩm kho tộ ghê ông Tư Nhiễn.
Mắt ông sáng lên
như gặp tri kỷ. Niềm xa vắng, nỗi nhớ
nhung chợt nhường cho cái gì nồng ấm.
-
Ê, ông mà cũng biết cá hũm hĩm
sao. Trời đất, ông là người Bắc
sao biết cá hũm hĩm khô tộ héng. Mà tôi tức là tại sao anh Khuê lại không biết ăn cá nghe, nếu mà có cá hũm
hĩm ở đây tôi kho tộ coi ảnh có chê không?
Câu chuyện nổ
ran như không ai buồn cả. Nét mặt của kẻ
vong quốc vẫn hàng ngày đăm chiêu chợt nhường cho một tình cảm sống động. Lúc đã khuya tôi đứng dậy vỗ vai ông.
-
Thôi ngủ mai
đi kéo cày sớm
Lê Thiệp (11/ 1978)
Lời cuối: Hôm nay, đọc lại bài này tôi vẫn cảm thấy có
những cảm xúc y như 35 năm trước, nhưng
không hiểu tại sao tôi vẫn không thể ……. Thôi, xin ngàn lần tha lỗi.
Vũ Đăng
Khuê