Lê Thiệp (người thứ 4 từ trái sang) |
Lời
giới thiệu của Vũ Đăng Khuê:
Xin
kể vài câu chuyện vui. Một hôm, có việc gì đó, bốc
điện thoại gọi cho một người bạn. Mới nói được
chữ “A lô”, thì đầu giây bên kia cất lên một giọng
nói rất trong trẻo.
“A
lô, A lô, con tên là….. má con là…. ba con là….. Xin lỗi
chú tên gì muốn gặp ai?
“Chú
là Khuê, cho chú gặp ba hay má”
‘Dạ,
chú đợi một chút, để con thưa lại với ba (má) con”
Đợi
một chút, cô bé tiếp:
“Dạ
thưa chú, ba con đang…. tắm, má con đi… cầu”.
Tôi
phì cười vì cái tính “thật thà” của cháu bé, có
sao nói vậy, chứ không như chú bác nó cứ … vòng vo tam
quốc. Nhưng dù sao đi nữa, nghe câu trả lời mà thấy
lòng mát rượi vì một thứ tiếng Việt vượt … quá
tiêu chuẩn hiếm thấy ở môi trường Nhật Bản.
Đến
thăm nhà một người bạn khác, được mời ăn cơm tối
với sự hiện diện đầy đủ cả “con” lẫn “cái”.
Hỏi chuyện cậu con trai, năm nay tuổi cũng trên dưới 30
bằng tiếng Việt, cậu cũng trả lời bằng tiếng Việt,
nhưng thỉnh thoảng mẹ cậu cứ phải thông dịch lại
cho tôi cũng …. bằng tiếng Việt.
Trong
một trường hợp khác, sau câu “Alô”, một giọng nói
còn bé bỏng nhưng lại đầy….. trịch thượng
“Ai,
ai đó”,
“Chú
Khuê đây, có ba ở nhà không?
“Ba
tao đi rồi”…
“Ba
con đi đâu vậy?
“Không
biết”
Chuyển
sang tiếng Nhật, cháu bé như mọc cánh, trả lời rất ư
là lễ phép.
Ông
Lê Thiệp có 3 cô con gái. 4 năm trước, cô thứ hai trong
chương trình trao đổi du học sinh, sang Nhật. Lúc đó,
ông Thiệp nhờ tôi làm người bảo đảm. Lẽ dĩ nhiên,
tôi vui vẻ nhận lời. Ông dặn: Con bé nhà tôi tiếng
Việt ú ớ lắm, Ông chịu khó nghe.
Gần
đến ngày sang Nhật, tôi điện thoại hỏi: “Cháu có
cần chú ra đón ở phi trường không?”, cô trả lời:
Thank
chú, ….“tụi mình” về nhà được không sao.
Trên
đây là 3 loại tiếng Việt ở ngoài này, một thứ tiếng
Việt được chỉ bảo đàng hoàng theo đúng sách vở, một
thứ thì ảnh hưởng nhiều nơi người mẹ còn một thứ
tiếng Việt thì “tự nhiên” mà nhớ chứ không được
ai dạy cả.
Tuy
nhiên lại có thêm một thứ tiếng Việt “dấm da dấm
dớ” , có từ khi xuất hiện những bộ phim Hồng Kông,
Đại Hàn được gọi chung là phim bộ. Chúng xâm nhập
vào khắp mọi nhà. Những bộ phim này được chuyển âm
bằng thứ tiếng Việt “nửa nạc, nửa mỡ”, nghe rất….
chói tai, nhưng nó đã làm chết mê chết mệt cả chục
ngàn gia đình Việt Nam. Lạ một điều là nhà nào mà có
những loại phim này thì con cái có vả lại biết tiếng
Việt rành hơn so với những nhà không có. Đến nỗi đã
có một đại MC ở hải ngoại phán: “Phim bộ đã giúp
ích rất nhiều cho việc…. giữ gìn tiếng Việt cho các
em” (đại khai là như vậy).
Xin
mời quí vị nghe cố ký giả Lê Thiệp luận về tiếng
Việt và thứ tiếng Việt “dấm da dấm dớ” so với
thứ tiếng Việt hiện nay …. trong nước qua bài viết
Xin
các hạ bình thân,
Ông
Phan Lạc Phúc là ký gỉa hàng đầu, ký gỉa cứng cựa
đàn anh của làng báo Việt Nam. Ông lại là dân lính -
Trung Tá Phúc của tôi - dày dạn gió sương, kể cả sương
gió trong trại cải tạo.
Ra
khỏi nước dần dà ông đã cầm bút trở lại và cuốn
sách Bè Bạn Gần Xa của ông là một cuốn nên đọc,
đáng đọc và có lẽ cần đọc để thấy trên tất cả
vẫn là cái tình người, cái còn lại nhân bản nhất.
Cuốn
sách có đoạn ông kể chuyện chơi đùa với đứa cháu
ngoại và trong cái tình ông cháu, ông cũng toan âm mưu dậy
cho đứa cháu gái bé bỏng tí tiếng Việt, và lấp ló
đâu đó là chút ít vốn liếng đời sống văn hóa Việt
Nam.
Ông
không nói rõ lắm, nhưng có thể ông nói toàn tiếng Việt
với đứa cháu và cố gắng để đứa cháu nói tiếng
Việt với ông.
Phương
pháp ai cũng bắt gặp trong kinh nghiệm này là dịch những
chữ tiếng Anh ra tiếng Việt và nhắc đứa bé lập lại.
Cháu nũng nịu ngồi trên lòng ông Lô Răng đòi "I
want the Cake" thì ông sẽ lập đi lập lại "Con
muốn chiếc bánh" và bắt đứa cháu nói cho bằng
được thì mới lòi chiếc bánh ra.
Hai
ông cháu chơi ngoài vườn nắng ấm.
Khi
con Sáo mỏ vàng chân vàng mắt như hạt cườm bay đi, đứa
cháu đưa tay vẫy vẫy, miệng nói "bye bye Chim" .
Ký
giả Lô Răng định dịch cho đứa cháu cân nói nửa Việt
nửa Mỹ này thành câu tiếng Việt hoàn toàn thì khựng
lại. Dịch làm sao? Chào Chim? Và ông kết luận " ngẫm
ra tiếng Việt đâu có dễ !"
Ông
Phan Lạc Phúc cả đời chữ nghĩa còn gặp khó trong một
câu nói giản dị, những kẻ như chúng ta thì còn gay cấn
đến như thế nào?
Ông
nhà văn Hoàng Khởi Phong - cũng là một ông lính khác -
vừa hoàn tất phần đầu cuốn trường thiên tiểu thuyết
Người Trăm Năm Cũ. Đây chắc chắn sẽ là một tác phẩm
lớn, chưa cần nói đến nội dung. Chỉ phần đầu mới
nói đến Ông Đề Thám và núi rừng Yên Thế đã dầy
trên 800 trang.
Ông
Hoàng Khởi Phong dự định sẽ viết tiếp bộ lịch sử
tiểu thuyết này cho đến năm 1975 mới chấm dứt. Tức
chúng ta sẽ được đọc về cuộc kháng chiến chống
Pháp sau giai đoạn cần Vương - có Nguyễn Thái Học rồi
giai đoạn Việt Minh - sau đó là Nam Bắc với Nga, Tầu,
Mỹ.
Nói
về ông Hoàng Khởi Phong như vậy chỉ muốn xác định
rằng tiếng Việt của ông rất cừ, nhưng tôi lại nhớ
đến đứa con ông.
Chuyện
cách đây cả chục năm khi ông Hoàng Khởi Phong lui cui gà
trống nuôi con. Ông là nhà văn cho nên cái cách của ông
rất thơ. Ông lôi cuốn Kiều của Nguyễn Du bắt con học
thuộc lòng. Từ đầu "trăm
năm trong cõi người ta" cho
đến "Mua
vui cũng được một vài trống canh".
Ông lý luận rằng bây giờ chưa hiểu thì mai mốt cháu
nó lớn lên sẽ hiểu. Cứ để nó ăn sâu vào tiềm thức
đã.
Tôi
phục qúa, hỏi thế ông có giảng Kiều cho cháu không?
"Thiện
tâm ở tại lòng ta"
thì dễ nhưng đến những đoạn như "Nhụy
đào thà bẻ cho người tình chung"
thì sao?
Ông
Phong cười thú nhận bận đi hàn xì kiếm cơm phờ người
nên cái vụ giảng giải thì chưa.
"Ấy, nhưng rồi ông coi mai mốt nó sẽ phải cám ơn
tôi."
Khi
ghé thăm, gặp cháu nhỏ tôi khen "cháu
thuộc Kiều tới đâu rồi?"
Ông bố Hoàng Khởi Phong chắc cũng muốn biểu diễn tí
ti, hét con "đọc
cho chú nghe đi"
. Cháu bé cỡ hơn mười tuổi bèn đọc vài câu. Ngay khi
bố Phong vào bếp lấy la de đãi bạn, chú nhỏ khẽ nói
với tôi "Daddy
is crazy, This book is stupid."
Chuyện
đó từ mười năm, mới đây qua điện thoại, tôi hỏi
vụ truyện Kiều, ông Hoàng
Khởi Phong hãnh diện "ông
thấy không. Ông con tôi bây giờ nói tiếng Việt như
sấm!"
Chuyện
sau cũng đã xẩy
ra cỡ hơn chục năm về trước, khi các cuốn phim bộ của
Tầu bắt đầu tràn lan trong cộng đồng Việt Nam.
Ông
Đỗ Đình Duyệt là một người rất phóng khoáng nhưng
thỉnh thoảng cũng ngồi dán mắt xem vua Càn long Du Giang
Nam.
Một
buổi sáng chủ nhật cũng đã trễ , tôi gõ cửa bấm
chuông. Thằng con trai lớn mắt nhắm mắt mở hé cửa gật
đầu chào. Tôi hỏi:
-
Bố có nhà không cháu?
Thằng
bé nhìn tôi và bỗng tay chưởng tay quyền cung kính chào
theo đúng luật giang hồ:
-
Bẩm phụ vương còn ngự trên lầu. Xin các hạ bình thân,
bình thân.
Tôi
bước vào phòng khách, trên ghế xa lông bừa bãi chăn gối
và cả chục cuốn băng phim tầu vứt ngổn ngang. Khi thấy
anh Duyệt, tôi phì cười:
-
Ối anh ơi, sao thằng Ngọc nói cái gì đặc sệt Tàu Chợ
Lớn vậy ?
-
Xin huynh đài bớt giận để Trẫm sẽ giáo huấn hoàng
nhi.
Ngọc
giờ này đã trưởng thành có vai vế trong xã hội và nói
tiếng Việt rất sõi.
Hồi
đó tôi ở Connecticut hay đi lại với ông Trần Văn Huy.
Ông Huy trẻ hơn tôi nhiều, giỏi chữ Hán chữ Nôm và
ông tỏ ra rất cương quyết trong lập trường văn hóa.
Cấm nói tiếng Mỹ trong nhà. Trừ trường hợp bất khả
kháng vì có lần vợ ông hỏi
" Khi đang lái xe trên xa lộ, em muốn đổi lane, nhưng
không biết lane tiếng Việt nói làm sao ?".
Ông Huy nghĩ nát óc không ra, tìm sách vở để kiếm tiếng
Việt tương đương không thấy. Vợ ông có lần lo lắng
sợ hai đứa nhỏ dốt tiếng Mỹ thì ông thản nhiên bảo
"Đừng
lo nó dốt tiếng Mỹ, chỉ sợ nó không nói được tiếng
Việt".
Khi
thân phụ và thân mẫu ông Huy từ Nữu Ước lên thăm con
cháu, ông rủ tôi tới gặp các cụ cho vui. Khoảng xế
trưa, khi hai cụ vừa bước vào cửa, đứa cháu đưa mắt
nhìn. Ông Huy quát con:
-
Sao không chào ông bà nội?
Thằng
lớn quay sang hỏi bố nó:
-
Hai đứa này, chào đứa nào trước, đứa nào sau?
Mới
đây hai đứa nhỏ - nay đã thành người có danh vọng -
đến thăm tôi và chào hỏi rất có tôn ti trật tự:
-
Bác có khỏe không? Bác gái đâu, bác? Các em học tới
lớp mấy rồi?
Mỗi
người có cách đối phó riêng. Khi nhà tan nước mất, cả
triệu dân Việt Nam bừng mắt dậy thấy mình đang sống
ở đồng đất nước người và ngày ngày phải nói một
thứ tiếng lạ tai.
Cái
lo sợ về đời sống dần dần rồi cũng nguôi ngoai và
khi đã có được chỗ ở tử tế, một việc làm vững
chãi, ngoài cái nỗ lực đối phó với đời sống bên
ngoài, những vấn đề bên trong bắt đầu xuất hiện.
Con cái vốn còn trinh nguyên đã nhập vào đời sống
chung quanh rất nhanh. Bạn bè, trường học, TiVi ... và
ngỏanh
đi ngoảnh lại bỗng thấy con mình nói toàn tiếng ngoại
quốc.
Thay
vì gọi bố mẹ, nay chúng gọi là Dad là Mom. Không có
chuyện thưa gởi gì hết. Ngôi thứ nhì là You, ngôi thứ
ba là She, He ... Chẳng còn tôn ti trật tự gì ráo trọi.
Thế này thì không được. Thế này thì còn ra thể thống
gì nữa ...
Cuộc
chiến đấu bắt đầu. "Bảo Tồn Văn Hóa", "Duy
Trì Nếp Sống Việt Nam" , "Bốn Nghìn Năm Văn
Hiến", "Con Cháu Lạc Hồng" ...
Trong
cộng đồng ở khắp nơi có lễ giỗ Tổ Hùng Vương, lễ
Hai Bà Trưng. Báo chí lúc đầu chú tâm đến chuyện mất
nước, chuyện cộng sản đàn áp, bỏ tù anh em bà con bên
nhà, đến đời sống cơ cực ở Việt Nam ...
Nhưng
chỉ ít lâu sau bắt đầu có những bài viết cổ võ cho
nỗ lực phải giữ lại cái phần
Việt Nam trong đời sống, phải dậy cho con cái về lịch
sử và văn hóa Việt Nam ...
Còn
trong gia đình, cái xung đột ngôn ngữ xem ra trầm trọng
hơn. Bố Mẹ thì vừa lo sinh tồn, lo kiếm cơm, lo học
tiếng của quốc gia định cư. Con cái thì mỗi ngày mỗi
quên và rồi quên hẳn tiếng Việt. Văn hóa, văn hiến xa
qúa, to qúa. Thôi hãy cứ cố dậy tụi nhỏ tiếng Việt
trước đã . Nhưng công việc xem ra không dễ dàng!
Không
giống như đời sống ở Việt Nam, nơi đây mọi người
đều phải đi làm, vợ một sở, chồng một sở, và làm
việc thật sự. Tối về cơm nước xong là phờ người.
Ngó đến con cái thì tụi nhỏ còn đang đánh vật với
bài vở nhà trường, chưa kể đến những sinh hoạt ngoài
học đường như thể thao, âm nhạc. Thì giờ đâu dậy
con tiếng Việt - chỉ là tiếng Việt u ơ hàng ngày - chưa
nói đến lịch sử văn hóa ...
Tất
nhiên là phải cố gắng. Nhưng trong nỗ lực này đa số
vấp phải hai yếu tố. Khả năng dậy dỗ, tức phương
pháp sư phạm và sau đó là tài liệu sách vở để dậy
con. Ông bố nóng tính, dậy được vài chữ là quát tháo
om sòm giống như ngày xưa ông nội đã quát tháo vậy. Bà
mẹ thương con thì thôi xí xóa.
Cuộc
chiến bỗng như trứng chọi đá, như anh David đánh nhau
với ông khổng lồ. Hệ thống giáo dục trường ốc nơi
đây tiến bộ nhất thế giới cung cấp cho tụi nhỏ đầy
đủ nhu cầu học hỏi. Sau đó là truyền hình. Rồi còn
áp lực bạn bè. Mỗi lúc đứa nhỏ cứ xa dần xa dần
không chỉ là văn hóa Việt mà ngay đến cái tình phụ tử
mẫu tử nó cũng đổi đi nhạt đi.
Cuộc
chiến sẽ còn dai dẳng kéo dài từ gia đình này đến
gia đình khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Khi
việt cộng còn đóng chặt cửa chưa cho tụi Ngụy về
thăm Việt Nam, ông bạn tôi nhìn người bạn Đại Hàn
thèm thuồng. Hễ cứ Hè là gia đình người Đại Hàn thu
xếp cả nhà về Hán Thành nghỉ hè. Con cái họ nói sõi
tiếng Đại Hàn và tụi nhỏ có một khái niệm khá rõ
về quê hương của cha me tổ tiên. Những năm sau này, nhà
cầm quyền Hà Nội đã có hẳn một chính sách o bế Việt
Kiều. Ông bạn tôi cứ loay hoay trong ý định đem con cái
trở lại Việt Nam. Hẳn rằng ông cũng muốn được như
gia đình Đại hàn.
Nhưng
ông vẫn cứ dùng giằng. Hỏi thì ông nói:
-
Kỳ lắm. Tôi cố bắt đài truyền hình của Hà Nội
nhưng chỉ nghe độ nửa phút là tắt đi. Tôi kiếm báo ở
trong nước đọc - dễ lắm qua internet đầy rẫy - mà
không bao giờ đọc hết được một trang. Tôi tự hỏi
không biết có nên để con cái mình nhiễm cái loại ngôn
ngữ kỳ dị đó không?
Đấy
chỉ là ý kiến cá nhân.
Giữa
cái lối nói xách mé của công nhân, cán bộ nhà nước
kiểu "Anh
kia muốn gì?"
và của cháu Ngọc con anh Đỗ Đình Duyệt "xin
các hạ bình thân"
không hiểu có cách nào hay hơn chăng?
Lê
Thiệp