Phạm Chí Dũng
Nguyễn Văn Bình |
Sơ kết, công luận và dư luận Việt Nam đã chứng kiến ít nhất 6 lần thay đổi ngẫu hứng về tỷ lệ nợ xấu chỉ trong gần 3 năm, kể từ khi ông Bình nhậm chức Thống đốc vào tháng 8/2011.
Những hình nhân nhảy múa
lệ nợ xấu của Việt Nam chỉ có 3%. Nhưng trước đó hai tháng, cơ quan xếp hạng tín nhiệm có uy tín trên thế giới là Fitch Ratings đã kịp nêu ra tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam là 13%, gấp 4 lần số báo cáo của “người Việt xấu xí”.
Đến cuối năm 2011, trong khi Thống đốc Nguyễn Văn Bình vẫn kiên trì bảo lưu trước Quốc hội về tỷ lệ nợ xấu 3%, lần đầu tiên con số về việc ít nhất 55.000 doanh nghiệp phải ngừng hoạt động và phá sản đã được công bố. Nền kinh tế Việt Nam cũng được xác nhận là rơi vào tình trạng “tái suy thoái”.
Mọi chuyện diễn ra lặng lẽ cho đến giữa năm 2012. Tại kỳ họp Quốc hội, ông Bình bất ngờ tung ra tỷ lệ nợ xấu lên đến 10%. Rất nhiều đại biểu Quốc hội và nhà báo từ ngỡ ngàng đến kinh ngạc vì sự biến hiện khuất tất đó. Người ta không thể hiểu vì sao chỉ trong một thời gian ngắn, nợ xấu đã tăng vọt gấp 3 lần. Càng không thể diễn tả nổi khi ông Bình không đưa ra một lời giải thích nào.
Chỉ biết rằng trước đó vào tháng 4/2012, Ngân hàng nhà nước đã phải làm động tác “giải hạn” cho các ngân hàng thương mại bằng một văn bản cho phép “tái cơ cấu nợ” với số nợ khoảng 250.000 tỷ đồng. Nếu không được sắp xếp lại nợ cho vay, mà về thực chất là “hoãn nợ” và “đảo nợ”, một số ngân hàng đương nhiên rơi vào tình thế khốn quẫn ngay vào thời điểm ấy vì không thể thu hồi dược dù một phần nhỏ nợ đọng từ khối doanh nghiệp.Sau khi chủ trương “tái cơ cấu nợ” được triển khai, tình hình có vẻ dần di vào diện “bình ổn”, các ngân hàng không còn phải quá lo lắng về chuyện siết nợ đối với các doanh nghiệp bất động sản con nợ. Vì thế, cuối năm 2012, tỷ lệ nợ xấu lại được Thống đốc Nguyễn Văn Bình công bố trước quốc hội là 8% mà không kèm theo bất kỳ cơ sở thuyết minh nào.Vào đầu năm 2013, tình hình vẫn tiếp tục được Chính phủ báo cáo “ổn định” đến mức Ngân hàng nhà nước lại một lần nữa “kéo” xuống 6% cho tỷ lệ nợ xấu. Nhưng khốn thay, đây cũng là lúc mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội lần đầu tiên phải công bố con số chẵn 100.000 doanh nghiệp phải ngừng hoạt động và phá sản, chiếm gần 20% so với tổng số doanh nghiệp đăng ký trên toàn quốc. Tuy nhiên theo cách tính toán riêng của một số chuyên gia phản biện, thực chất con số doanh nghiệp phá sản và ngừng hoạt động còn cao hơn, có thể lên đến 200.000, liên quan đến việc số doanh nghiệp này không còn khả năng đóng thuế cho nhà nước.Khác với những mâu thuẫn về “gói kích cầu nhà đất” trong năm 2011, 2013 lại là năm “đi đêm” giữa Ngân hàng nhà nước với Bộ Xây dựng trong một chiến dịch PR và làm mọi cách để “đánh lên” bất động sản nhằm tiêu thụ núi hàng tồn kho chất cao vời vợi, đặc biệt là ít nhất 100.000 căn hộ cao cấp dãi dầu mưa nắng. Vào giữa năm đó, trong khi số nợ cần được “tái cơ cấu” đã nâng lên 272.000 tỷ đồng và các ngân hàng lại một lần nữa kêu thét, thậm chí có ngân hàng cuống cuồng bên bờ vực phá sản, Ngân hàng nhà nước lại một lần nữa phóng thích văn bản gia hạn nợ lần thứ hai. “Bình ổn ngân hàng” cũng vì thế có cơ hội tái hiện. Sau đó và như một đồng thanh tương ứng, Ngân hàng nhà nước cùng Bộ Xây dựng tiếp tục “kéo” tỷ lệ nợ xấu về mức 4%.
Nhưng cùng trong năm 2013, một cuộc hội thảo về nợ xấu đã được tổ chức tại thành phố biển Nha Trang lãng mạn. Song mối thi vị đáng lưu tâm nhất của hội thảo này là lần đầu tiên, một vài chuyên gia nhà nước như ông Trần Đình Thiên– Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Việt Nam– cùng một số chuyên gia người Việt ở nước ngoài, đã hết sức bức xúc về con số nợ xấu mà theo tính toán của họ, có thể lên đến 500.000 – 540.000 tỷ đồng, tức gấp đến ba lần con số nợ xấu mà Ngân hàng nhà nước công bố vào cùng thời điểm.
Vẫn chưa phải hết. Cũng vào giữa năm 2013, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia – một cơ quan tư vấn trực thuộc chính phủ – bất ngờ công bố tỷ lệ nợ xấu thực là từ 35-37%, tức gấp ít nhất 6 lần con số công bố của Ngân hàng nhà nước. Tình trạng “nội chiến” ghê gớm như thế làm người ta không thể bỏ mặc bài học khủng hoảng tài chính ở Thái Lan năm 1997: trước khủng hoảng, báo cáo về tỷ lệ nợ xấu chỉ có 5%; nhưng khi khủng hoảng nổ ra, tỷ lệ nợ xấu thực đã bị phát hiện lên đến 50%!
Quả thực, cây muốn lặng nhưng gió chẳng dừng. Vào cuối năm 2013, một lần nữa các ngân hàng thương mại phải đồng loạt kêu cứu bởi quy định “phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro” của Ngân hàng nhà nước đã khiến họ không còn đường thoát. Cho tới lúc này, công ty quản lý tài sản (VAMC) đã chưa phát huy được bất cứ tác dụng gì, ngoài việc “ôm” lại nợ của các ngân hàng thương mại với giá rẻ mạt nhưng không biết bán lại cho ai, kể cả các đối tác nước ngoài mà được hệ thống Tuyên giáo mô tả là “xếp hàng chờ mua nợ của VAMC”.Ngược lại, ngay đầu năm 2014, một tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế là Moody’s đột ngột công bố tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam lên đến 15%. Công bố này được phổ biến trên truyền thông quốc tế và lan truyền hơn hẳn công tác thông tin vào những năm trước. Lúc này, hầu hết các nhà đầu tư đều am hiểu câu chuyện “nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn trước mắt dù đã đạt được không ít tiến bộ”. Cũng cho đến lúc này, ngay cả những tổ chức tài chính “có thiện cảm với Việt Nam” như Ngân hàng thế giới (WB) và đặc biệt là Ngân hàng phát triển Á châu (ADB) – hai địa chỉ cho vay hào phóng nhất nhưng lại đang tìm cách cột chặt Việt Nam vào vòng xoáy nợ nần – có vẻ cũng trở nên ngượng ngùng hơn bởi thái độ phải kềm giữ lòng nhiệt huyết của họ khi muốn dành cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế Việt Nam lời khen tặng như vào những năm trước.Chịu áp lực nặng nề của dư luận, từ hệ thống chính trị quá khó thuận hòa và không còn cách nào khác, Thống đốc Ngân hàng nhà nước một lần nữa phải xuất hiện để “cải chính”. Cho rằng con số của Moody’s chỉ mang tính tham khảo, ông Nguyễn Văn Bình xác nhận rằng tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam “9% là hợp lý”.
Thói dối trá chính trị
Tất nhiên trong bối cảnh nợ xấu chưa hề được xử lý và vẫn đang tăng lên từng ngày, câu chuyện “nhảy múa nợ xấu” của Thống đốc Ngân hàng nhà nước vẫn chưa dừng ở đây. Trong lúc giới báo chí nhà nước còn quá e ngại bởi sợ đụng chạm đến nhóm thân hữu, giới phản biện đối lập trong nước lại ít mê đắm hơn khi chỉ mặt điểm tên “thói dối trá bệnh hoạn của giới quan chức ngân hàng”.
Nguyễn Văn Bình – người được một số dư luận đánh giá là “cánh tay phải của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng” –cũng bị xem là người đã đóng góp cả hai tay vào công cuộc nhiệt thành làm giàu cho các nhóm lợi ích ngân hàng nhưng lại khiến lụn bại thị trường tín dụng, điên đảo thị trường vàng cùng một nền kinh tế quặt quẹo chỉ trong chưa đầy ba năm kể từ khi nhậm chức Thống đốc.Ngày càng nhiều người dân bày tỏ công khai sự nghi ngờ và nỗi sợ hãi của họ đối với nguy cơ tiền tiết kiệm bị “bốc hơi”, ngay vào lúc chính giới lãnh đạo Ngân hàng nhà nước và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng bắt đầu phải lộ ra chuyện “sẽ cho phá sản một số ngân hàng”.Một cuộc khủng hoảng ngân hàng trong năm 2014 là khả năng bùng nổ rất cận kề. Một trong những chỉ dấu ngọt ngào cho cuộc khủng hoảng ấy là thói bất nhất và dối trá về thông tin tỷ lệ nợ xấu của cơ quan Ngân hàng nhà nước. Để khi xảy ra cơn địa chấn ấy, toàn bộ nền kinh tế sẽ cùng chết chìm.
Vào cuối năm 2011, trong khi một tờ báo mạng ít tiếng tăm của Việt Nam là Vnexpress bầu chọn Thống đốc Nguyễn Văn Bình là “Nhân vật của năm 2011”, tạp chí Global Financial có uy tín hơn nhiều trên trường quốc tế lại liệt ông Bình vào “một trong 20 Thống đốc có thành tích điều hành tệ nhất thế giới”.
P. C. D.